Giảm nghèo hiệu quả nhờ triển khai đồng bộ các chính sách
Những năm qua, công tác xóa đói giảm nghèo luôn được các cấp, các ngành của huyện Kbang tỉnh Gia Lai tập trung đẩy mạnh. Hàng loạt chính sách về giảm nghèo của Trung ương lẫn địa phương được triển khai đồng bộ, kịp thời đã giúp nhiều người dân vươn lên thoát nghèo bền vững.
Số liệu thống kê từ Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội
huyện Kbang cho thấy, từ năm 2010 đến 2014, số hộ nghèo trên địa bàn huyện giảm
đáng kể với 3.546 hộ, tỷ lệ giảm 22,36% (tức bình quân mỗi năm giảm 5,17%).
Cụ thể: năm 2010, toàn huyện có 7.622 hộ nghèo (chiếm tỷ lệ
51,86%), trong đó một số xã vùng sâu, vùng xa, số hộ nghèo chiếm tỷ lệ rất cao
như: Kon Pne 93,93%, Đak Rong 90,20%, Krong 83,26%; thì đến năm 2014 số hộ nghèo
của huyện giảm còn 4.706 hộ (chiếm tỷ lệ 29,50%), trong đó, hộ nghèo là người
dân tộc thiểu số có 4.131 hộ (chiếm 87,78%), còn lại là người Kinh với 575 hộ (chiếm
12,22%).
Trong những năm qua, các chương trình, dự án về xóa đói giảm
nghèo và đào tạo nghề cho lao động nông thôn của Trung ương, của tỉnh đã được
huyện Kbang triển khai đồng bộ, lồng ghép với các chương trình, dự án khác đang
triển khai trên địa bàn. Theo ông Lê Thanh Sơn, Phó Trưởng phòng Lao động-Thương
binh và Xã hội huyện Kbang: trên cơ sở Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ VII,
Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội huyện đã tham mưu UBND huyện xây dựng kế
hoạch giảm nghèo giai đoạn 2011-2015 cũng như các giải pháp để triển khai thực
hiện có hiệu quả; đồng thời xây dựng kế hoạch giảm nghèo hàng năm phù hợp với
điều kiện thực tế của huyện.
Thời gian qua, huyện đã thực hiện tương đối tốt chính sách an
sinh xã hội, tiếp tục hỗ trợ trực tiếp cho những hộ nghèo gặp rủi ro, thiên tai;
trợ cấp thường xuyên cho hộ nghèo đơn thân nuôi con đang đi học. Đối với các hộ
nghèo thiếu sức lao động, đã phối hợp giúp đỡ ngày công trong sản xuất và thu
hoạch kịp thời; riêng các hộ nghèo dân tộc thiểu số thiếu đất, được huyện ưu
tiên cấp bò sinh sản để phát triển chăn nuôi, tăng thu nhập.
Cùng với đó, huyện đã tập trung hướng dẫn người nghèo cách
làm ăn và thực hiện tốt việc khuyến nông, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
phù hợp với từng vùng, từng loại đất canh tác và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật cho hộ nghèo; xây dựng các mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong sản xuất (mô hình trình diễn) nhằm giúp hộ nghèo ứng dụng vào thực tế có
hiệu quả. Bên cạnh đó chú trọng ưu tiên đào tạo nghề cho hộ nghèo có lao động.
Thông qua các đơn vị đào tạo nghề có năng lực và kinh nghiệm như: Trung tâm Dạy
nghề và Giáo dục Thường xuyên huyện, Trường Trung cấp Nghề An Khê, Trường Cao
đẳng Nghề Nông-Lâm Nam Trung bộ (Bình Định) và các cơ quan có liên quan…, từ năm
2011 đến nay, huyện đã tiến hành đào tạo nghề cho 3.206 lao động (bình quân mỗi
năm đào tạo thêm 641 lao động), nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo/tổng số lao động
đang làm việc trong nền kinh tế từ 16,5% lên 25,5%.
“Các ngành, nghề đào tạo sát với đời sống sản xuất của người
dân nhằm đảm bảo sau khi học nghề xong, người lao động có thể tự vận dụng kiến
thức, kỹ thuật được đào tạo vào thực tiễn sản xuất của gia đình để nâng cao năng
suất cây trồng, vật nuôi, tăng thu nhập và vươn lên thoát nghèo bền vững” - ông
Sơn cho hay.
Các chính sách tín dụng ưu đãi cũng được triển khai kịp thời,
có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất - kinh doanh của hộ
nghèo. Đến nay tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng đứng chân trên địa
bàn huyện đạt 1.020 tỷ đồng; trong đó dư nợ cho vay theo Nghị định 41/2010 của
Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn chiếm
26%.
Mặc dù đạt được những thành tựu nhất định song công cuộc xóa
đói giảm nghèo của huyện Kbang cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
bởi tỷ lệ hộ nghèo có giảm nhưng vẫn còn cao; số hộ cận nghèo tăng lên qua các
năm. Đa phần hộ nghèo của huyện đều xuất phát từ nguyên nhân thiếu vốn, đất sản
xuất và phương tiện canh tác hoặc thiếu lao động, không có việc làm lại đông
người ăn theo. Ngoài ra, còn có một bộ phận do lười lao động, ỷ lại vào sự hỗ
trợ của Nhà nước (theo kết quả điều tra năm 2014, cả huyện có 47 hộ nghèo nằm
trong diện này).
Hơn nữa, một số xã trên địa bàn có vị trí cách xa trung tâm
huyện. Do đó, trình độ nhận thức của người nghèo nói chung, đồng bào dân tộc
thiểu số nói riêng còn khá lạc hậu, nặng tính tập thể; điều kiện kinh tế, trình
độ canh tác còn yếu kém. Nhiều hộ còn tư tưởng cam chịu cuộc sống, thiếu ý chí
vươn lên thoát nghèo, nhất là ở những người lớn tuổi.
Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư cho chương trình xóa đói giảm
nghèo hàng năm không nhiều, trong khi nhu cầu của người nghèo lại rất lớn; việc
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã có tỷ lệ nghèo cao gặp nhiều khó khăn;
thiếu chính sách khuyến khích hợp lý về dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm;
nhận thức về trách nhiệm đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở một số xã chuyển
đổi còn chậm, việc nắm bắt đối tượng nghèo chưa được thường xuyên, sự phối hợp
giữa các ban ngành, đoàn thể trong triển khai thực hiện xóa đói giảm nghèo đôi
khi chưa chặt chẽ; một số địa phương chưa huy động được nội lực cho xóa đói giảm
nghèo, còn trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước; sự phân hóa giàu nghèo
gia tăng, thể hiện ở sự chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa nông thôn và thị
trấn, giữa các tầng lớp dân cư…