Công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững vùng đồng bào DTTS tỉnh Bình Thuận

Năm 2002, Tỉnh ủy Bình Thuận (khóa X) ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU “Về xây dựng và phát triển toàn diện dân sinh, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Qua 12 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy, tình hình các mặt dân sinh, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số có sự chuyển biến khá toàn diện, nổi rõ là:

Đến nay, đã giải quyết cấp hơn 4.870 ha đất sản xuất cho trên 4.180 hộ đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần nâng tổng diện tích đất canh tác vùng đồng bào dân tộc thiểu số toàn tỉnh lên 14.950 ha, bình quân mỗi hộ đạt trên 01 ha. Đã thực hiện hỗ trợ 100% lãi suất cho vay vốn để đồng bào dân tộc thiểu số phát triển chăn nuôi bò với tổng giá trị đạt trên 22 tỷ đồng, đã giải quyết cho trên 3.160 hộ vay, mua 4.680 con trâu, bò để nuôi; đến nay, đàn bò phát triển tốt, nhiều hộ sau khi bán bò trả nợ vay Ngân hàng vẫn còn từ 5 - 6 con bò để tiếp tục chăn nuôi; Ngân hàng đã thu hồi nợ đạt trên 96,5%; đã thực hiện giao khoán trên 86.400 ha rừng cho 2.380 hộ đồng bào dân tộc thiểu số quản lý, bảo vệ; bình quân 36,3 ha/hộ, với mức phí hiện nay là 200.000 đồng/ha/năm; nhờ đó mỗi hộ có thêm thu nhập 7,26 triệu đồng/năm; rừng giao được quản lý, bảo vệ tốt hơn, hạn chế nạn phá rừng làm rẫy, khai thác lâm sản trái phép. Gắn với đó, các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn đồng bào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng cũng được quan tâm chỉ đạo, thông qua việc ban hành và thực hiện một số chính sách cụ thể như: Hỗ trợ phát triển cây cao su vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tổ chức cung ứng trên 219.000 cây giống cho 482 hộ trồng gần 400 ha cao su, đến nay có nhiều hộ nhờ trồng cao su trở lên khá, giàu. Thực hiện đầu tư ứng trước, trợ cước vận chuyển để hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số; qua 3 năm đã đầu tư ứng trước, trợ cước vận chuyển cho gần 18.700 lượt hộ, trồng trên 34.000 ha cây lúa, cây bắp lai, với tổng kinh phí trên 80 tỷ đồng; đồng thời tổ chức thu mua được trên 34.600 tấn, với trị giá 117,5 tỷ đồng.

Nhìn chung, cơ bản các hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã được đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất. Sản xuất nông nghiệp phát triển khá rõ và dần đi vào ổn định, phương thức canh tác từng bước thay đổi, hạn chế được tình trạng phá rừng trái phép.

Hệ thống kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư nhờ đó, bộ mặt vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có sự thay đổi rõ rệt. Trong 10 năm qua, bằng nhiều nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia, vốn Trung ương hỗ trợ có mục tiêu và ngân sách..., Bình Thuận đã có nhiều cố gắng, tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu ở các xã miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với trên 718 công trình, kinh phí trên 805 tỷ đồng. Đến nay 100% xã miền núi, vùng cao, xã thuần đồng bào dân tộc thiểu số, có trụ sở làm việc kiên cố, có đường ô tô đến trung tâm xã và các thôn, có điện sinh hoạt, trạm y tế, có đủ trường lớp từ mầm non đến trung học cơ sở; 93% số hộ sử dụng điện lưới quốc gia; hầu hết các xã đều có chợ, có cửa hàng xăng dầu; 16/17 xã thuần đồng bào dân tộc thiểu số có nhà văn hóa, hệ thống nước sinh hoạt tập trung; 9/11 xã vùng cao có nhà công vụ; 11/11 xã vùng cao có hệ thống cửa hàng, có đại lý bán lẻ (thuộc Trung tâm Dịch vụ miền núi). Ngoài ra, nhiều đập, hồ chứa nước, trạm bơm, kênh mương thủy lợi cũng được tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp phục vụ sản xuất nông nghiệp cho người dân. Nhờ đó, bộ mặt nông thôn, miền núi có nhiều khởi sắc.

Sự nghiệp giáo dục, y tế được chăm lo tốt hơn; đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số từng bước ổn định; hầu hết đều có ý thức nỗ lực vươn lên, đời sống được cải thiện khá rõ.

Đến nay, hệ thống giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số khá hoàn chỉnh; trường lớp được đầu tư nâng cấp; đội ngũ giáo viên được chuẩn hoá, chất lượng dạy và học được nâng lên; tỷ lệ học sinh các cấp đến trường ngày càng tăng, trẻ mẫu giáo đạt trên 78,5%; trẻ 06 tuổi vào lớp 1 đạt 99,98%; học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề) đạt 82,2%. Các chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số được thực hiện đúng quy định, kịp thời, từ đó góp phần giảm đáng kể tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng, nâng cao chất lượng giáo dục. 5 năm Bình Thuận đã thực hiện trợ cấp cho trên 59.000 lượt em với tổng kinh phí 45,4 tỷ đồng.

Mạng lưới y tế cơ sở tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được củng cố cả về tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất, trang thiết bị, cơ bản đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Đến nay có 100% xã có trạm y tế, có 15/17 trạm y tế xã thuần đồng bào dân tộc thiểu số có bác sĩ. Công tác vệ sinh phòng dịch được duy trì, bệnh sốt rét được kiểm soát có hiệu quả. Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng đủ 6 bệnh truyền nhiễm đạt trên 95%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 15%; bệnh bại liệt, bệnh uốn ván trẻ sơ sinh đã được thanh toán, loại trừ; tỷ lệ người tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt trên 54,47%.

Các chính sách an sinh xã hội, thực hiện xóa đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số được duy trì, triển khai thực hiện có kết quả; đời sống của đồng bào được cải thiện rõ; đã có trên 7.000 lao động được giải quyết việc làm, 100.000 lượt hộ được vay vốn tín dụng ưu đãi, 4.600 hộ nghèo được hỗ trợ giải quyết nhà ở... Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 57,4% năm 2003 xuống còn 15,23% năm 2013.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số căn bản được giữ vững. Hệ thống chính trị ở cơ sở từng bước được xây dựng, củng cố; đặc biệt, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được tập trung đào tạo, bồi dưỡng và có bước trưởng thành đáng kể. Trách nhiệm và sự quan tâm của các cấp, các ngành đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được tăng cường.

Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần quan trọng, thúc đẩy vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển nhanh hơn trong thời gian tới; khối đại đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh được tăng cường; niềm tin của đồng bào đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước tiếp tục được nâng lên.

Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là trong điều kiện ngân sách khó khăn, sự đầu tư nguồn lực của tỉnh đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian qua là khá lớn, nhưng hiệu quả đạt được trên từng mặt cụ thể vẫn còn hạn chế, có mặt chưa vững chắc; đáng chú ý là: Kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển chưa mạnh; hiệu quả hoạt động của các làng nghề truyền thống còn thấp, phát triển tiểu thủ công nghiệp còn lúng túng; trình độ sản xuất nông nghiệp nhìn chung còn thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng phát huy chưa tốt, một số nơi xuống cấp và sử dụng còn lãng phí. Mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp. Một số tập tục lạc hậu chưa được khắc phục triệt để; ý thức vệ sinh phòng bệnh còn kém. Đời sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn; kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, một số nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao; một số ít hộ đang còn thiếu đất sản xuất, điều kiện canh tác còn khó khăn. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhìn chung còn hạn chế.

Qua quá trình triển khai, thực hiện, cần rút được một số kinh nghiệm như sau:

1- Khi xây dựng nghị quyết và chương trình hành động phải xuất phát từ lợi ích của người dân, chủ trương đúng đắn, nội dung cụ thể, giải pháp sát hợp, đồng bộ, đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào dân tộc, được các cấp, các ngành và nhân dân đồng tình ủng hộ thì nghị quyết sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống.

2- Việc chỉ đạo, điều hành phải sâu sát, cụ thể, bám sát các nhiệm vụ trọng tâm; phân công, xác định trách nhiệm rõ ràng đối với các cấp, các ngành có liên quan.Đồng thời, phải tăng cường kiểm tra, đôn đốc và định kỳ hàng năm tổ chức sơ kết để đánh giá việc thực hiện nghị quyết.

3- Chú trọng phát huy dân chủ, đề cao tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành; nâng cao trách nhiệm của hệ thống chính trị cơ sở, khơi dậy ý thức vươn lên trong cách nghĩ, cách làm, tự lực thoát nghèo; tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Đảng và Nhà nước của đồng bào dân tộc thiểu số.

4- Phát huy đúng mức vai trò chỉ đạo, lãnh đạo của ban điều hành, cơ quan thường trực Nghị quyết số 04 của Tỉnh ủy trong việc phối hợp với các sở, ngành, ủy ban nhân dân các huyện trong triển khai thực hiện.

 In bài viết
Văn bản điều hành