Quy định mới về quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung

Từ 10/9/2017, Thông tư số 76/2017/TT-BTC sửa đổi Thông tư 54/2013/TT-BTC về quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung của Bộ Tài chính có hiệu lực thi hành. Nhưng liệu đây có phải là chìa khóa giải bài toán “cha chung không ai khóc” ở nhiều công trình nước sạch lâu nay?

Hơn 26,1% công trình nước sạch “đắp chiếu”

Thời gian qua, Chính phủ đã tập trung phát triển mạng lưới cấp nước sạch nông thôn, nhất là tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK. Nhưng bên cạnh những công trình phát huy hiệu quả, vẫn còn nhiều công trình được đầu tư xây dựng hàng tỷ đồng nhưng bỏ hoang, gây lãng phí ngân sách nhà nước và bức xúc trong nhân dân.

Công trình nước sạch ở xã Hùng Quan, huyện Đoan Hùng (Phú Thọ) là một dẫn chứng. Công trình có tổng vốn đầu tư hơn 5,5 tỷ đồng, hoàn thành vào năm 2011; công trình nhằm bảo đảm nước sinh hoạt thường xuyên, lâu dài cho khoảng 700 hộ dân. Nhưng cuối năm 2012, do nguồn nước cạn kiệt nên công trình này ngừng hoạt động cho đến nay.

Tương tự, Nhà máy nước sạch xã Gia Phố (Hương Khê-Hà Tĩnh) có tổng mức đầu tư hơn 18 tỷ đồng từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới, đưa vào sử dụng tháng 10/2014. Nhưng 3 tháng sau (tháng 1/2015) công trình bị hư hỏng, sau đó lâm vào tình trạng “sửa chỗ này thì hỏng chỗ khác”. Từ đợt lũ tháng 10/2016 đến nay, công trình ngừng hoạt động hoàn toàn.

Hai trường hợp nêu trên chỉ là dẫn chứng cho hàng nghìn công trình nước sạch được đầu tư tiền tỷ tại các địa phương nhưng không phát huy hiệu quả. Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) cho thấy, cả nước hiện có khoảng 16.220 công trình cấp nước tập trung được xây dựng. Nhưng đến nay có gần 2.500 công trình hoạt động kém hiệu quả, gần 1.800 công trình không hoạt động, chiếm 26,1% tổng số công trình nước sạch đã xây dựng.

Có chế tài nhưng “đá bóng” trách nhiệm

Từ việc kiểm đếm những công trình nước sạch bị hư hỏng, hoạt động kém hoặc không hiệu quả, hàng loạt nguyên nhân dẫn tới tình trạng này đã được chỉ ra. Trong đó, khâu quản lý sau đầu tư chưa phù hợp, còn nhiều yếu kém được xác định là nguyên nhân hàng đầu.

Theo ông  Đỗ Văn Thành , Vụ trưởng Vụ Quản lý nguồn nước và Nước sạch nông thôn, Tổng cục Thủy lợi (Bộ NNPTNT), lâu nay, việc quản lý các công trình nước sạch do nhiều đơn vị thực hiện, như: đơn vị sự nghiệp công lập (trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh, ban quản lý dự án huyện…), doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, UBND xã,… Quyền và nghĩa vụ của các đơn vị quản lý công trình nước sạch được quy định rất rõ tại Thông tư số 54/2013/TT- BTC, ngày 04/5/2013 của Bộ Tài chính về quy định quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung.

Theo quy định tại thông tư này thì các đơn vị được giao quản lý các công trình nước sạch có trách nhiệm bố trí kinh phí để duy tu, bão dưỡng công trình; bảo đảm cung cấp nước cho khách hàng, đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và chất lượng dịch vụ. Chế tài là vậy nhưng khi công trình hư hỏng thì các bên liên quan thường đổ lỗi cho nhau, không ai gánh trách nhiệm về mình.

Như công trình nước sạch ở huyện Đà Bắc, sau khi hoàn thành được giao cho Công ty MTV nước sạch tỉnh Hòa Bình quản lý, vận hành. Nhưng từ cuối năm 2012, khi công trình hư hỏng, đơn vị này dừng khai thác, cũng chẳng sửa chữa. Vì vậy mà công trình có vốn đầu tư hơn 5,5 tỷ đồng từ từ nguồn vốn Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn “đắp chiếu”.

Theo ông Nguyễn Hữu Mai, Giám đốc Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng Đà Bắc, việc quy trách nhiệm rất khó. Quy cho đơn vị tư vấn thiết kế, đơn vị thăm dò địa chất cũng không đúng, chủ đầu tư thì căn cứ vào hồ sơ. Nặng nhất vẫn là cơ quản chủ quản đầu tư là UBND huyện.

Tương tự, Nhà máy nước sạch xã Gia Phố (Hương Khê-Hà Tĩnh) được giao cho Hợp tác xã nước sạch-môi trường Gia Phố vận hành. Công trình do Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Hà Tĩnh làm chủ đầu tư. Khi công trình hư hỏng, Hợp tác xã không có tiền nên làm công văn “kêu” chủ đầu tư. Còn chủ đầu tư nghĩ đã “hết trách nhiệm” nên không đoái hoài đến đề xuất của Hợp tác xã. Thế nên công trình ngày càng hư hỏng.

Đấu thầu quản lý-có khả thi?

Để siết chặt khâu quản lý sau đầu tư các công trình nước sạch, ngày 26/7/2017,  Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 76/2017/TT-BTC về sửa đổi Thông tư số 54/2013/TT-BTC; thông tư có hiệu lực từ ngày 10/9/2017.

Một điểm mới của Thông tư số 76/2017/TT-BTC là sẽ tổ chức đấu thầu việc quản lý các công trình nước sạch, với mục tiêu gắn trách nhiệm cho các đơn vị, tránh tình trạng “cha chung không ai khóc” như lâu nay. Nhưng liệu mục tiêu này có đạt khi mà vẫn còn nhiều điểm bất cập chưa được giải quyết triệt để.

Vướng mắc phải kể đến đầu tiên là việc xác định giá trị thực tế của công trình để tổ chức đấu thầu. Theo Thông tư số 76/2017/TT-BTC thì việc xác định lại giá trị thực tế của công trình để giao vẫn thực hiện theo nguyên tắc giá trị còn lại của nguyên giá ban đầu, thường được quy chiếu theo sổ sách kế toán. Do đó tình trạng giá trị còn lại được xác định thường cao hơn so với giá trị thực tế của công trình.

Như vậy sẽ có tình huống, không ít đơn vị khi trúng thầu sẽ “ôm” những công trình mà giá trị thực tế rất thấp, sẽ phải bỏ tiền của để đầu tư lại. Điều này chỉ xảy đến với những công trình nước sạch ở những địa bàn tập trung đông dân cư, có thể mang lại lợi nhuận cho đơn vị đấu thầu. Còn với những công trình nước sạch ở miền núi, vùng sâu, vùng xa thì chắc chắn chẳng có đơn vị nào ngó ngàng tới vì khó có thể sinh lãi.

Mặt khác, cũng vì nguyên tắc đấu thầu này mà doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, sẽ bỏ thầu vào các các công trình tốt, hoạt động hiệu quả. Còn các công trình không tốt và kém hiệu quả vẫn lại giao cho UBND cấp xã và các đơn vị sự nghiệp công lập. Trong điều kiện ngân sách hạn hẹp thì các công trình nước sạch do UBND cấp xã và các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, vận hành cũng sẽ tiếp tục hoạt động kém hoặc không hiệu quả do “cha chung không ai khóc”.

KT

 In bài viết

Các tin khác

Văn bản điều hành