20 năm thực hiện Chương trình 135: Đổi mới tư duy và những con số ấn tượng
Ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 135/QĐ-Ttg phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135). Đây là một Chương trình đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có ảnh hưởng không những đến phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống đồng bào ở các vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa mà còn góp phần giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng ở những địa bàn xung yếu của đất nước.
Sau 20 năm, với những thành tựu hết sức to lớn, Chương trình 135 đã trở thành “thương hiệu” và được cả hệ thống chính trị, các tổ chức quốc tế cùng nhân dân cả nước ghi nhận là lực lượng vật chất to lớn, góp phần làm thay đổi diện mạo địa bàn đặc biệt khó khăn của nước ta.
Nhưng cũng sau 20 năm, Chương trình 135 với cách làm chủ yếu là đầu tư cơ sở hạ tầng đứng trước yêu cầu cần phải thay đổi cách thức đầu tư theo hướng: giảm phạm vi địa bàn, lấy thôn bản làm trung tâm, lấy mô hình làm hạt nhân để tập trung hỗ trợ mạnh hơn nhằm giải quyết hiệu quả bài toán về sự đa dạng tình trạng nghèo ở vùng dân tộc thiểu số. Hiện nay, “lõi nghèo” của đất nước tập trung chủ yếu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn tiếp tục là vùng “lõi” của “lõi nghèo”.
Chương trình 135 được “khai sinh” là kết quả của sự chuyển đổi nhận thức trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Qua 20 năm thực hiện, đến nay, trong hệ thống chính sách dân tộc ở nước ta, Chương trình 135 được xác định là “xương sống”.
Từ đổi mới tư duy trong đầu tư phát triển ở vùng đặc biệt khó khăn…
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22/NQ/TW ngày 27/11/1989 về “Một số chủ trương, chính sách lướn phát triển kinh tế - xã hội miền núi”, để tham mưu, đề xuất và xây dựng chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm, đặc thù của mỗi vùng, miền, đối tượng cụ thể, Việt Nam tiến hành phân định địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo điều kiện địa lý tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Với cách phân chia này, vùng dân tộc thiểu số và miền núi được chia thành 3 khu vực, dựa trên 5 tiêu chí cơ bản: đời sống, cơ sở hạ tầng, các yếu tố xã hội, điều kiện sản xuất, điều kiện tự nhiên địa bàn cư trú. Theo cách phân định này, khu vực III được xác định là địa bàn đặc biệt khó khăn. Từ việc phân định này đã hình thành và triển khai thực hiện Chương trình 135.
Theo TS. Bế Trường Thành - Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, lựa chọn các xã đặc biệt khó khăn, vùng nghèo nhất nước để tập trung đầu tư là sự đổi mới trong nhận thức, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Thay vì lộ trình “dễ làm trước, tiến dần đến vùng khó khăn hơn” như cách làm của các chương trình, dự án trước đó, đến Chương trình 135 đã đổi lại, chọn những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để tập trung ưu tiên đầu tư hỗ trợ.
Từ năm 1999 - 2005, Chương trình 135 đầu tư trên địa bàn 2.410 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu với 5 nội dung trọng tâm: xây dựng cơ sở hạ tầng, trung tâm cụm xã, đào tạo cán bộ, quy hoạch dân cư và phát triển sản xuất.
Giai đoạn từ 2006 - 2010, Chương trình 135 tiếp tục được thực hiện tại các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số, miền núi với 4 nhiệm vụ chính: hỗ trợ phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất cho đồng bào dân tộc; phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh tế, đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng; hỗ trợ các dịch vụ cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật. Giai đoạn này, Chương trình 135 được thực hiện trên địa bàn 1.958 xã; 3.274 thôn bản đặc biệt khó khăn trong cả nước.
Từ 2011 - 2015, Chương trình 135 rút xuống còn 2 nhiệm vụ trọng tâm là hỗ trợ cơ sở hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất trên địa bàn 2.331 xã, 2.932 thôn bản đặc biệt khó khăn.
Trong các năm từ 2016 - 2018, Chương trình 135 là dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, triển khai trên địa bàn 2.139 xã và 3.973 thôn bản khó khăn, với 3 nội dung: hỗ trợ phát triển sản xuất; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng; nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ cơ sở.
Phân tích cơ chế đầu tư của Chương trình 135 qua các mốc thời gian như trên để thấy rõ, quá trình đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước không chỉ ở sự “khai sinh” ra Chương trình 135, mà còn thể hiện trong nội dung nhiệm vụ trọng tâm của từng giai đoạn có sự khác biệt.
Giai đoạn đầu, Chương trình tập trung ưu tiên cho đầu tư cơ sở hạ tầng tại vùng đặc biệt khó khăn, với phương châm mọi người dân, mọi dân tộc thiểu số sinh sống trong vùng đó đều được thụ hưởng chính sách. Tuy nhiên, chính sách theo vùng như vậy cũng có những hạn chế đối với địa bàn giáp ranh có điều kiện tương đồng nhưng không thuộc diện thụ hưởng do giới hạn địa giới hành chính.
Ở các giai đoạn sau, Chương trình 135 đã đầu tư, hỗ trợ xuống tận đơn vị thôn bản chính là để tránh hiện tượng “so bì, thắc mắc” của đồng bào, thậm chí cả của cấp chính quyền địa phương mà nếu không giải quyết thỏa đáng rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước.
Triển khai vào thời điểm Việt Nam vừa tiến hành mở cửa và thuộc nhóm các nước nghèo của thế giới, Chương trình 135 nhận được sự quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế. Thực hiện cam kết với các nhà tài trợ quốc tế về điều kiện giải ngân, Chương trình 135 qua các giai đoạn được thực hiện theo cơ chế đặc thù, đơn giản, phù hợp với trình độ quản lý và tổ chức thực hiện của các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Người dân được tham gia từ khi xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, đến giám sát và bàn giao công trình. Quá trình thực hiện đảm bảo tính dân chủ, huy động được sự tham gia đóng góp của cộng đồng, góp phần tạo nên việc làm, tăng thu nhập cho người dân thuộc các địa bàn thụ hưởng chính sách.
…Và kết quả tất yếu là những con số ấn tượng
Kết quả của sự đổi mới tư duy trong đầu tư phát triển ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi là những con số ấn tượng mà Chương trình 135 đạt được. Từ năm 1999 - 2018, ngân sách nhà nước đã đầu tư trên 50.364 tỷ đồng, huy động xã hội hóa 1.046 tỷ đồng và huy động từ các nhà tài trợ quốc tế tổng số kinh phí tương đương trên 7.242 tỷ đồng để thực hiện Chương trình 135.
Từ xuất phát điểm hầu hết các xã đặc biệt khó khăn là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh, biên giới, cơ sở hạ tầng thiết yếu rất thấp kém, hoặc chưa có; các yếu tố xã hội chưa đạt mức tối thiểu: dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ, thất học trên 60%, nhiều bệnh tật, tập tục lạc hậu; điều kiện sản xuất rất khó khăn, sản xuất mang tính tự nhiên, đồng bào duy trì phương thức sản xuất phát rừng làm nương rẫy, du canh, du cư, số hộ đói nghèo trên 60%... Đến nay, hầu hết các xã đặc biệt khó khăn đã có đầy đủ các công trình hạ tầng. Tuy quy mô công trình còn nhỏ, số lượng còn hạn chế so với nhu cầu nhưng cũng đã tạo ra sự thay đổi to lớn về điều kiện kinh tế - xã hội trên địa bàn. Theo thống kê sơ bộ, 100% các xã đã có đường ô tô đến trung tâm; 99% trung tâm xã và 80% thôn bản có điện; 65% xã có hệ thống thủy lợi nhỏ đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống; 88% thôn có đường cho xe cơ giới, 42% thôn có đường giao thông đạt chuẩn; trên 50% trạm y tế xã đạt chuẩn. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn giảm nhanh theo từng giai đoạn…
Qua đầu tư cơ sở hạ tầng, Chương trình 135 đã góp phần xóa bỏ phần lớn trường, lớp học tạm bợ, tạo điều kiện huy động hầu hết trẻ em trong độ tuổi ở các xã đặc biệt khó khăn đến trường, thúc đẩy hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở ở các xã vùng sâu, vùng xa. Các công trình thủy lợi đã góp phần tăng năng lực tưới tiêu, giúp đồng bào có đất canh tác, trồng cấy các loại cây công, nông nghiệp, cây ăn quả, tăng sản lượng lương thực và chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa…
Chương trình 135 đã làm thay đổi nhận thức của một bộ phận lớn đồng bào các dân tộc thiểu số; giúp nhiều hộ thoát nghèo, nhiều hộ có thu nhập cao nhờ được phổ biến kiến thức và tham quan, học tập các mô hình sản xuất, làm ăn có hiệu quả; được hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm kết hợp với hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi có giá trị.
Năng lực cộng đồng và cán bộ cơ sở từng bước được nâng lên. Đội ngũ cán bộ cơ sở được đào tạo, tập huấn thường xuyên, đáp ứng yêu cầu quản lý của các hợp phần trong Chương trình.
Những kết quả trên đã làm thay đổi nhanh, cơ bản diện mạo nông thôn vùng dân tộc thiểu số, miền núi, góp phần hạn chế sự “dãn ra” khoảng cách chênh lệch, phân hóa giàu - nghèo mà cực nghèo chủ yếu rơi vào đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Chương trình 135 thực sự trở thành lực lượng vật chất to lớn, góp phần thúc đẩy nhanh công tác xóa đói giảm nghèo ở các xã, thôn bản vùng III.
Chương trình được cộng đồng quốc tế, nhất là nhà tài trợ ngân sách quan tâm, đánh giá là chương trình giảm nghèo toàn diện, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, ít thất thoát, được nhân dân cả nước đồng thuận, được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đến tham quan, học tập và chia sẻ kinh nghiệm.