Tăng cường công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020”, trách nhiệm của các sở, ban, ngành cấp tỉnh, của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp ở các huyện miền núi được nâng lên, tạo chuyển biến quan trọng về công tác giảm nghèo.
Kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có bước phát triển khá toàn diện; đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ rệt. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường và củng cố; nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, việc làm cho lao động được quan tâm giải quyết. Sự nghiệp giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trị được củng cố, đội ngũ cán bộ là người dân tộc được quan tâm đào tạo bồi dưỡng; an ninh, trật tự trên vùng dân tộc và miền núi được giữ vững, góp phần nâng nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo.
Tốc độ giảm nghèo ở các huyện miền núi luôn cao hơn 1,7 lần bình quân chung toàn tỉnh, trong đó 7 huyện nghèo cao gấp 2,1 lần bình quân chung toàn tỉnh; tỷ lệ hộ nghèo bình quân giảm 5,5 % (giai đoạn 2013-2015) và giảm 4,42 % (giai đoạn 2016-2017); thu nhập bình quân đầu người tăng 1,6 lần so với năm 2013 và tăng 1,25 % so với năm 2015. Đến nay, có 1/7 huyện (Như Xuân) thoát khỏi diện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ; 17,4% xã đặc biệt khó khăn và 8,12 % thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc miền núi thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn theo tiêu chí quy định; có 33 xã và 35 thôn bản đạt chuẩn nông thôn mới.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU ở các huyện miền núi của tỉnh vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: công tác lồng ghép các nguồn vốn; nguồn vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất sử dụng hiệu quả thấp; việc thực hiện hỗ trợ giống cây, giống con chưa gắn với tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật; một số cơ chế chính sách thực hiện chưa linh hoạt, phù hợp; văn bản hướng dẫn chậm, còn có những nội dung chồng chéo giữa các ngành có liên quan, dẫn đến gây khó cho công tác tổ chức triển khai thực hiện tại cơ sở; huy động xã hội hóa kết quả còn hạn chế…
Để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ giải pháp đã đề ra, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện hơn về công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi đến năm 2020, đạt mục tiêu giảm nghèo của tỉnh đề ra. Phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện miền núi thấp còn 1,04%, các huyện nghèo còn 4,12 %; thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng khoảng 2,5 lần so với năm 2015. Không còn hộ ở nhà tạm, bảo đảm có diện tích nhà ở tối thiểu 8m2/người trở lên; không còn thôn, bản không có điện và 95% hộ gia đình được sử dụng nước hợp vệ sinh. Phấn đấu có ít nhất 2/6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; 20-30% số xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo tiêu chí quy định… Tỉnh xác định cần nâng cao nhận thức, kỹ năng, kinh nghiệm trong sản xuất cho người nghèo; huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với thực tế; triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng; nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người nghèo; nâng cao chất lượng giáo dục; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện mục tiêu giảm nghèo và ứng ụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ nghèo…