Thay đổi cách tiếp cận xây dựng chính sách để giảm nghèo bền vững
Thời gian qua, để giảm nghèo vùng DTTS và miền núi, một hệ thống chính sách đã được ban hành, nguồn lực bố trí thực hiện cũng không hề nhỏ. Nhưng do hầu hết các chính sách mới chỉ tiếp cận ở góc độ hỗ trợ nên kết quả giảm nghèo còn thiếu bền vững.
Chỉ hỗ trợ, khó bền vững
Trong số báo 1556, ra ngày 27/9/2919, Báo Dân tộc và Phát triển đã phản ánh thực trạng giảm nghèo nhanh nhưng thiếu bền vững ở vùng DTTS và miền núi khi mà tỷ lệ nghèo phát sinh mỗi năm còn tương đối lớn. Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH), hết năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo phát sinh đã chiếm 17,8% so với tổng số hộ thoát nghèo; tức là cứ 100 hộ dân thoát nghèo thì có gần 18 hộ phát sinh nghèo mới.
Đây rõ ràng là một nghịch lý, bởi ngân sách Trung ương đã chi hàng chục nghìn tỷ đồng để thực hiện các chương trình, dự án, đề án nhằm đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững. Riêng giai đoạn 2016-2018, ngân sách Trung ương đã bố trí hơn 21.597 tỷ đồng cho các bộ ngành, địa phươngtriển khai các chương trình, chính sách về giảm nghèo.
Nguyên nhân của nghịch lý này đã được các chuyên gia phân tích, làm rõ. Đặc biệt, tình trạng đầu tư, hỗ trợ dàn trải khiến nguồn lực vốn đã eo hẹp càng bị lãng phí hơn khiến mục tiêu giảm nghèo bền vững của các chương trình, chính sách tỏ ra “hụt hơi” trong thực tế triển khai đã được mổ xẻ rất nhiều trong các hội nghị, hội thảo.
Trong nghị trường, tại nhiều phiên chất vấn, vấn đề này được nhiều đại biểu Quốc hội nêu ra bằng những dẫn chứng cụ thể. Đó là câu chuyện điện thắp sáng cho thôn bản thì phải chất vấn trách nhiệm của Bộ Công thương; nhưng khi hỏi nguồn vốn phân bổ lại phải hỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính…
Nhưng “gốc rễ” của vấn đề là ở khâu thiết kế chương trình, chính sách về giảm nghèo. Một điểm dễ nhận thấy nhất là ở hầu hết các chương trình, chính sách là đều tiếp cận ở quan điểm là hỗ trợ để đồng bào DTTS thoát nghèo. Vì là hỗ trợ nên dẫn đến thực trạng “có cũng được, không có cũng không sao”. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa của tình trạng chính sách ban hành nhưng không có nguồn lực thực hiện; hoặc có nguồn lực nhưng bố trí không đủ, không kịp thời.
Sửa đổi chính sách, không dễ làm ngay
Những tồn tại, hạn chế trong các chương trình, chính sách về giảm nghèo đã được nhận diện từ lâu, nhất là hạn chế trong khâu thiết kế chính sách. Nhưng như chia sẻ của ông Ngô Trường Thi, Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ LĐTB&XH) thì chính sách là lâu dài, dù nhận diện được tồn tại, hạn chế cũng không thể sửa đổi, bổ sung trong ngày một ngày hai.
Như chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo DTTS theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg; được triển khai từ năm 2009. Số tiền hỗ trợ cho hộ nghèo không nhiều (80 nghìn đồng/nhân khẩu/hộ ở xã khu vực II, 100 nghìn đồng/nhân khẩu/hộ ở xã khu vực III) nên chỉ giải quyết được nhu cầu chi tiêu trước mắt của đồng bào DTTS, không tạo ra đột phá đề giảm nghèo.
Hạn chế của chính sách này đã được nhận diện, nhưng phải gần 10 năm sau (bắt đầu từ 01/1/2019), chính sách hỗ trợ trự tiếp theo Quyết định 102/2009/QĐ-TTg mới chính thức bãi bỏ. Tính từ khi chính sách được triển khai đến khi bị bãi bỏ (tháng 9/2009 đến hết tháng 12/2018), thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, chính sách đã hỗ trợ trên 40 triệu lượt người, tương đương số tiền khoảng 4 nghìn tỷ đồng.
Trong khi đó, nhu cầu căn bản nhất để giúp hộ nghèo DTTS thoát nghèo bền vững là sinh kế, là đất sản xuất (ĐSX) lại rất khó giải quyết. Chính sách hỗ trợ ĐSX đã triển khai từ nhiều năm nay, nhưng kết quả thực hiện không mấy khả quan. Theo giảm sát của Hội đồng Dân tộc, việc hỗ trợ ĐSX cho đồng bào DTTS thời gian qua chỉ đạt 11,7%, tức là bình quân 10 hộ có nhu cầu về đất sản xuất thì chỉ có khoảng 1 hộ được giao đất.
Thay đổi quan điểm tiếp cận
Cũng cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, tái nghèo và nghèo phát sinh nghèo luôn là một khía cạnh trong lĩnh vực giảm nghèo. Với xuất phát điểm thấp, lại thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi thiên tai nên không thể mặc định rằng, công tác giảm nghèo ở vùng DTTS và miền núi “chỉ có tiến, không có lùi”.
Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là, làm thế nào để đồng bào DTTS có thể “miễn dịch” với tình trạng tái nghèo, nghèo phát sinh?
Không khó để nhận thấy, hộ nghèo DTTS (thậm chí là hộ cận nghèo) sinh sống ở địa bàn khó khăn rất khó thoát nghèo bền vững nếu các chương trình, chính sách chỉ mang tính hỗ trợ. Bởi nếu là hỗ trợ thì chỉ mới dừng lại ở việc “đắp vá” những chỗ thiếu hụt trong đời sống của đồng bào.
Do đó, việc Đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội được Chính phủ giao Ủy ban Dân tộc xây dựng, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 sắp tới thay đổi cách tiếp cận chính sách, từ hỗ trợ sang đầu tư phát triển, đem lại nhiều kỳ vọng mới trong công tác giảm nghèo bền vững vùng DTTS và miền núi. Đây là điểm mới, cũng là điểm trọng tâm, đột phá trong xây dựng chính sách phát triển vùng DTTS và miền núi trong thời gian tới.
Quan điểm tiếp cận này cũng là cơ sở để đề xuất xây dựng Chương trình mục tiêu Quốc gia riêng để phát triển vùng DTTS và miền núi. Bởi chỉ khi xây dựng thành Chương trình mục tiêu thì những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chính sách về giảm nghèo mới được giải quyết triệt để.